Châu Đốc trong trái tim của mỗi người dân Việt là nơi mà mỗi tên đất, tên người, tên núi, tên sông đều ghi đậm dấu ấn lịch sử của một thời cha ông ta đi mở cõi.
Ít có ai trong chúng ta nhớ về cột mốc thời gian năm 1757 đánh dấu sự xuất hiện của Châu Đốc trên bản đồ Đại Việt, cũng như không có nhiều người trong chúng ta nhớ về một địa danh tuyệt đẹp mà nay đã chìm vào dĩ vãng: Châu Đốc Tân Cương.
Châu Đốc Tân Cương hay vùng đất mới nơi biên thuỳ xa xôi, qua 250 năm cùng hoà chung dòng Đại Việt, là mảnh đất hội tụ nhiều trầm tích văn hóa khác nhau trên mảnh đất mà dòng Mekong hung vĩ nơi thượng nguồn lại hết sức khoan thai khi chảy vào đất Việt, tạo nên một phương Nam trù phú và một Châu Đốc rạng ngời, trước khi dòng sông này hòa mình vào với đại dương bao la.
Châu Đốc bây giờ không xa Sài Gòn là mấy, khi xe đò chỉ cần chạy khoảng sáu tiếng là về tới thị xã đáng yêu này.
Nói đến Châu Đốc là chúng ta nghĩ ngay đến Núi Sam, nằm cách trung tâm thị xã khoảng năm cây số. Có lẽ ngọn núi này nhìn từ xa có hình dáng trông giống như một con sam nên ngày xưa người ta đặt tên cho ngọn núi này là vậy. Trên đỉnh núi cao hơn hai trăm mét này có bệ thờ Bà, cùng nhiều am, cốc, chùa và miếu, thờ cúng đủ loại nhân vật mang nhiều ảnh hưởng tôn giáo khác nhau. Dọc đường lên xuống núi lúc nào cũng văng vẵng những tiếng tụng kinh niệm Phật và những tiếng chuông chùa. Dưới chân núi Sam là lăng Thoại Ngọc Hầu, là miếu Bà Chúa Xứ, là chùa Tây An mang vẻ đường bệ, hoàng tráng của nghệ thuật kiến trúc cổ xưa.
Lần nào về Châu Đốc cũng vậy, chúng tôi cũng đến Núi Sam, lên đỉnh bằng xe và lội bộ xuống núi. Đường xuống Núi Sam rất dễ đi, rộng và thoáng. Khi mùa mưa đến, có nhiều loài hoa dại nở dọc hai bên lối đi, nhưng nhiều nhất là hoa tigôn nho nhỏ, màu hồng tươi, nhìn rất vui mắt, cùng nhiều bươm bướm đầy sắc màu bên lượn nhởn nhơ. Dọc đường xuống núi là những trạm dừng chân, là những hàng quán xập xệ, có bán nước ngọt, nước tăng lực và mì gói, và treo nhiều võng cho khách nghỉ chân. Nhớ bữa xuống núi lúc trời mưa, đoàn chúng tôi nhanh chân trú vào một quán cóc ven đường, cạnh một ngôi chùa nhỏ, nơi có mắc khoảng mười lăm cái võng phía bên trong. Khi được gia chủ mở lời, chúng tôi không ai ngại ngần thót lên võng để nằm thử, rồi khoái chí đung đưa, nhìn mưa rơi ngoài hiên và khẽ hát.
Dưới chân Núi Sam là miếu Bà Chúa xứ, tuy kiến trúc của Miếu có sự giản đơn, nhưng sự hiển linh của Bà có vẻ vô biên, như đa phần người dân phương Nam thừa nhận. Lễ hội Bà Chúa Xứ là lễ hội lớn nhất ở Tây Nam Bộ này. Mùa lễ hội vào tháng Ba âm lịch hàng năm là mùa của đông vui và náo nhiệt, mùa của sự thành tâm và kính cẩn, mùa của khách thập phương hội tụ về đây. Người ta đến với Miếu Bà là cầu mong cho hạnh phúc, cho bình yên, cho phát đạt, cho sự linh thiêng vô biên của Bà phù hộ những sinh linh nhỏ bé nơi trần gian này. Việc thờ Bà Chúa Xứ của người Việt chúng ta có ảnh hưởng sâu xa từ trong tín ngưỡng tôn giáo của các dân tộc khác như Chăm, Hoa và Khmer bao đời cùng sống chung tại khu vực Tây Nam Bộ này.
Nằm đối diện với miếu Bà Chúa Xứ là lăng Ông Thoại Ngọc Hầu. Thoại Ngọc Hầu là niềm tự hào của người Châu Đốc, và cả người Hà Tiên, nơi dấu ấn do ông tạo ra ngày xưa trên những vùng đất này vẫn còn in đậm nét. Đóng góp của ông với đời, là hai con kinh Thoại Hà, và Vĩnh Tế Hà do ông chỉ huy đào, một nối Đông Xuyên với Rạch Gía, một nối Châu Đốc với Hà Tiên nay vẫn còn hiện hữu.
Đây chính là tiền đề cho những cuộc khẩn hoang các vùng đất mới sau này, cũng như cho việc gìn giữ cõi bờ biên cương xa xôi, và đó là cơ sở quan trọng để cho người Việt đặt chủ quyền lên những vùng đất mới khai phá sau này.
Những làng xóm được mọc lên, những dòng nước ngọt được đưa về, những tiếng cười hồn nhiên của bao lớp trẻ thơ, những làn khói bếp lam chiều vươn lên từ những mái nhà tranh là minh chứng hùng hồn cho những đóng góp cực kỳ quan trọng của ông tại vùng đất phương Nam nắng chói này.
Không cần phải giải thích dài dòng tại sao dân Việt mình, nhất là người miền Nam, lại tôn thờ, kính trọng và ngưỡng mộ những nhân vật như Bà Chúa Xứ, Ông Thoại Ngọc Hầu, hay Phật Thầy Tây An.
Lịch sử ghi lại rằng, vùng đất này ngày xưa được ghi nhận là lắm hoang vu, đầy sơn lam chướng khí, và nhiều hiểm họa bất ngờ từ miền biên viễn. Đến với Châu Đốc ngày nay chúng ta mới thấy được sách lược tài tình của các bậc minh quân thuở trước. Những cái tên đi vào lịch sử đồng bằng như Nguyễn Văn Thoại, Nguyễn Văn Tuyên, Trần Văn Thành, Đoàn Minh Huyên được mọi người nhắc mãi, vì chính họ là những người đã cùng cam cộng khổ với những con người xa xứ đến đây, cùng chung tay tạo dựng một cuộc sống thanh bình, ấm no, và hạnh phúc cho biết bao người dân Việt nơi đây qua nhiều thế hệ.
Ai đó đã từng nói lịch sử là một dòng chảy xuyên suốt, với hiện tại kết nối với quá khứ và mở hướng tương lai. Nếu như trước đây Châu Đốc chỉ được biết đến khu cụm du lịch Núi Sam với Miếu Bà Chúa Xứ hay Lăng Ông Thoại Ngọc Hầu, thì hôm nay Châu Đốc còn gây ấn tượng với khách phương xa bằng những bè cá được nuôi dưới sông, những thánh đường Chăm với tháp chuông vút cao, những khu chợ biên giới với người xe nhộn nhịp, những cửa khẩu quốc gia, và những câu cầu sắp được xây dựng trong một tương lai không xa.
Nói chuyện làng bè là nhớ ngay đến anh Trí đưa đò, luôn mang tình yêu xứ sở hòa vào niềm vui của khách thập phương khi họ đến đây. Nhìn cảnh anh thay chủ bè cho cá ăn trên bè nổi, hay lúc anh chuyện trò rôm rả với những thanh niên Chăm bên sông mới hiểu được tình yêu của anh dành cho Châu Đốc nơi anh sinh ra nó đặc biệt như thế nào. Giờ đây, con anh đã nối nghiệp thay cha, cũng khúc sông này, vui buồn cùng lữ khách đường xa.
Riêng tôi, làng Chăm Châu Giang không chỉ có những thánh đường Hồi Giáo uy nghi, hay những cô gái Chăm duyên dáng bên cạnh những khung dệt, mà còn có những mảnh đời khốn khó nhưng rất lạc quan của bọn trẻ trong làng. Chúng nhỏ thó và đen đúa vì trân mình xuyên xuốt cùng hai mùa mưa nắng đồng bằng. Đứa thì bán bánh khoai mì nướng, đứa bán bưu thiếp có hình con trâu đang cày hay có hình cây cầu khỉ bắc qua kinh. Cả bọn vui ra mặt khi hàng hôm nay được bán chạy hơn hôm qua vì đoàn khách có anh hướng dẫn đẹp trai đi cùng. Nhớ hôm chúng tôi quay lại bến đò bên cạnh tượng đài cá basa để tiếp tục cuộc hành trình của mình thì thấy bọn trẻ, dù trời mưa đang rơi, nhưng bọn chúng vẫn vô tư vui đùa dưới làn nước phù sa đục ngầu, bên cạnh những nhánh điên điển gầy khẳng khiu đang khoe sắc bông vàng, lao xao trong gió. Trong khung cảnh ấy, thử hỏi lòng ai không xao động, xao động về vẻ đẹp thanh bình của làng quê bến nước, xao động về cái hạnh phúc của người miền quê, rất dung dị và rất đỗi bình thường.
Trong tôi vẫn còn nhớ như in cái bữa ngồi xe từ nội ô Châu Đốc về Khánh Bình, một huyện giáp biên giới Cam Pu Chia. Đường lộ ven sông rất nhỏ, nên xe phải chạy chầm chậm, vượt qua những cánh đồng bao la vàng rực ngày mùa. Lòng tôi lại tràn ngập những niềm vui khi được chuyện trò với những người nông dân chân chất, bằng những câu chuyện chẳng có điểm dừng. Nào là lúa năm nay trúng mùa, giá bán được cao, nào là bắp năm nay nặng hạt, nào là nhà nước chuẩn bị mở đường cao tốc lên tận biên giới, nào là cửa khẩu quốc gia sắp trở thành cửa khẩu quốc tế. Nhưng nhớ nhất là lúc chuyện trò cùng em gái Khmer, nói tiếng Việt rành rõi, khi chờ xe quay về Châu Đốc. Cầm ly nước thốt nốt em mời còn vương mùi hương thoang thoảng của hoa, cùng cái vị ngọt lịm của thốt nốt làm tê tê nơi đầu lưỡi, tất cả vẫn như còn nguyên vẹn trong tôi về một Khánh Bình trong một chiều nhạt nắng đầu tháng mười hai.
Dù sương khói đồng bằng lắm mong manh, hay chợt tan chợt biến, nhưng vẻ rạng ngời của Châu Đốc vẫn còn sống mãi với thời gian. Dù năm tháng có đổi thay, vẫn còn đó một tình yêu trinh nguyên của nhiều người dành cho Châu Đốc, cho cái vị ngọt của thốt nốt, vị đắng của sầu đâu, vị mặn của mắm, hay cho sắc vàng của điên điển, sắc hồng của ô môi, và sắc tím của bằng lăng nơi đây. Vẻ rạng ngời của Châu Đốc hôm nay còn chính là những nét thanh xuân yêu đời, những nụ cười rạng rỡ luôn nở trên môi của những con người chân chất nơi đây mỗi độ xuân về.
Written by Duc Pham