“Ai đứng như bóng dừa
“Tóc dài bay trong gió
Có phải người còn đó
Là con gái của Bến Tre”
Tôi tìm về Bến Tre lòng miên man theo câu hát năm nào. Trong tim tôi và trong bao trái tim của nhiều người dân Việt, Bến Tre là quê hương của xứ dừa bạt ngàn, lúc xào xạt trong nắng, lúc rì rào trong mưa. Đi trong Bến Tre là đi trong bóng dừa rợp mát, mát rượi những tấm lòng quê dân dã, mát rượi những tâm hồn khoáng đạt mến tặng cho những lữ khách đường xa.
Những rặng dừa Bến Tre hiện diện khắp nơi, từ hai bên bờ kinh, trước sân sau vườn, đến đường làng ao cá, luôn xanh tươi và ngọt lịm, tự bao đời. Cái màu xanh miên man rừng dừa, cái nồng nàn của hương dừa Bến Tre cùng với cái nghiêng nghiêng, cái vững chãi của những thân dừa nơi đây là kết quả từ những hạt phù sa lắng đọng mà những nhánh sông Mekong đêm ngày chuyên chở, trước khi dòng sông nhân nghĩa ấy hòa mình vào biển cả mênh mông.
Có thể nói một cách chắc chắn rằng, không nơi nào trên dãi đất Việt Nam này có thể sánh với số lượng dừa được trồng trên đất Bến Tre, dù đó là rừng dừa Tam Quan cạnh đường thiên lý được nhiều người biết đến. Khoảng bốn mươi ngàn héc ta dừa được trồng tại Bến Tre hôm nay đang mang lại một diện mạo mới cho những người nông dân vốn một nắng hai sương sống đời cần lao tại xứ sở này. Giữa bốn bề sông nước, màu xanh của rừng dừa xen lẫn với màu xanh của đồng ruộng và màu xanh của những vườn cây ăn trái xanh tươi, Bến Tre hiện đang là điểm đến du lịch xanh được nhiều du khách gần xa yêu thích.
Hôm qua, Bến Tre dường như xa lắm vì đò ngang cách trở lối về. Còn hôm nay khi những chuyến phà Rạch Miễu đã lùi vào dĩ vãng, Bến Tre lại càng trở nên gần gũi và thân thương hơn với mọi nhà.
Tôi đã về Cái Mơn, đêm nằm nghe sóng hát rì rào qua những tàn cây sầu riêng phiếm lá xanh tươi, ngày dạo quanh qua những con đường làng nho nhỏ, rợp sắc vàng trong nắng của hoa mai, của bông vạn thọ, của những châu cúc mâm xôi khi những ngọn gió xuân mát rượi dưới sông kia đang phơi phới thổi về. Cái Mơn còn là nơi chôn nhau cắt rún và lưu giữ dấu tích của người sáng lập ra Gia Định Báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên của nền báo chí Việt Nam khi những con chữ này chưa được nhiều người sử dụng. Nhiều người cho rằng, nếu cụ Võ Trường Toản là hậu tổ của nền Nho học trên đất Đồng Nai – Gia Định xưa, thì cụ Trương Vĩnh Ký là bậc tiền hiền của chữ quốc ngữ trong toàn cõi Việt Nam.
Tôi đã đến Ba Tri, một vùng quê biển nhọc nhằn trên vai chị vai em những gánh muối nặm mang vị ngọt cho đời. Tôi biết, trong thâm tâm của những người con xa xứ Ba Tri, họ luôn mong có một ngày về lại quê hương để được uống ngụm nước mát của quê nhà. Với họ, âu đó cũng là điều hạnh phúc lắm rồi. Ba Tri còn là nơi yên nghỉ của cụ Phan Thanh Giản vì trung quân cam đành tử tiết sau mười bảy ngày không ăn uống cùng chén thuốc độc phút cuối đời, khi cụ cảm thấy bản thân mình bất lực trước sức mạnh quân sự của ngoại bang.
Tôi đã ngang qua Giồng Trôm, nơi nhà yêu nước Phan Văn Trị được sinh ra. Đỗ cử nhân năm mười chín tuổi, nhưng do chán cảnh quan trường, buồn chuyện thời cuộc, ông từ quan lui về ở ẩn, sống cuộc đời đạm bạc. Ông giúp dân bằng việc dạy học cho trẻ con, bốc thuốc nam trị bệnh cho dân nghèo. Người dân vùng Phong Điền, ngoại ô Cần Thơ cũng rất đỗi tự hào vì sự hiện diện của ông trong những năm tháng cuối đời, nơi mà ông đã xem là quê hương thứ hai của mình. Giồng Trôm của Bến Tre ngày nay còn được nhiều người biết đến bằng thứ đặc sản địa phương được làm từ gạo nếp, từ nước của sông Mekong. Đó là bánh tráng Mỹ Lồng và bánh phồng Sơn Đốc. Tuy làm từ hai loại bột khác nhau nhưng hai loại bánh này đều sở hữu một vị chung. Đó là vị của quê hương, vị của tình yêu thương đồng loại, vị quà quê dân dã từ người và đất xứ dừa Bến Tre, luôn được dành tặng cho nhau trong những ngày giáp Tết.
Nếu lịch sử dân tộc là dòng chảy xuyên suốt với những trang sử kiêu hùng của những bậc tiền nhân cho những kẻ hậu bối noi theo, người Bến Tre hôm qua và hôm nay, ai mà không tự hào với tên tuổi cụ Nguyễn Đình Chiểu, ai mà không nằm lòng những áng văn bất hủ cho đời của cụ, những áng văn mang đầy tình nghĩa với gia đình, với giang sơn gấm vóc. Nhớ cụ Đồ Chiểu là nhớ đến hình ảnh chàng Lục Vân Tiên giữa đường thấy chuyện bất bình ra tay, là nhớ đến nàng Kiều Nguyệt Nga dạ trung trinh, lòng son sắt, trọn vẹn một lời thề. Nhớ cụ Đồ Chiểu cũng là nhớ đến những bài văn tế, nhớ đến hình ảnh những người nông dân lam lũ, quanh năm chỉ biết cuốc bẫm cày sâu, nhưng bỗng dưng một ngày kia lại trở thành những nghĩa quân gan dạ, quyết chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, bảo vệ từng tấc đất ngọn rau trước gót giày đinh xâm lược của kẻ thù.
Bến Tre được tạo thành từ ba cù lao lớn, và được bồi đắp bởi bốn nhánh sông. Lịch sử Bến Tre hôm qua là lịch sử của những con người Bến Tre mang trong tim mình dòng máu Việt liệt oanh, với tình yêu quê hương đất nước dạt dào, như dòng Mekong cuộn sóng, bằng trí tuệ uyên thâm, bằng tầm vông vạt nhọn và bằng ánh sáng từ những đuốc lá dừa rọi chiếu trong đêm.
So với những tỉnh thành Tây Nam Bộ khác, Bến Tre là đất ghi nhiều dấn ấn của giới nữ lưu. Giữa buổi giao thời với văn minh phương Tây khi lan toả vào vùng đất mới, tờ báo “Nữ Giới Chung” qua ngòi bút tài hoa của Sương Nguyệt Anh đã để lại trong tâm trí người Việt Nam một hình ảnh đẹp về một nhà thơ đa tài và một người tiên phong trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi của phụ nữ nước nhà. Đó còn là hình ảnh của nữ tướng Nguyễn Thị Định kiên trung, tiêu biểu của phụ nữ miền Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa qua. Từ phong trào Đồng Khởi, hình ảnh đội quân tóc dài vận áo bà ba cùng chiếc khăn rằn Nam Bộ đã bước ra khỏi luỹ tre làng, hoà chung nhịp bước của dân tộc, tạo nên khúc tráng ca bi hùng của đất trời phương Nam, vang vọng cho đến ngày non sông nối liền một dãi.
Tình đất tình người Bến Tre sao mà sâu nặng đến vô ngần. Cái thăm thẳm chiều sâu không gian bao la những lúc đêm về, cùng sự lắng đọng của nghĩa tình đậm đà xứ dừa nơi đây đã làm say đắm biết bao tâm hồn của những kẻ dừng chân. Đó chính là khí chất Nam Bộ được kế thừa từ dòng máu Lạc Hồng trên hành trình mở cõi về phương Nam, cùng sự giao lưu tiếp biến văn hoá trong quá trình cộng cư của cư dân Việt xứ Bến Tre trên miền đất mới. Khí chất Nam Bộ ấy giờ đang hiện hữu không chỉ trong cuộc sống đời thường của người dân sống dọc hai bên bờ Mekong châu thổ, mà còn được cất giữ trong ngăn ký ức khó quen của những ai đã một lần diện kiến và được tô đậm qua những sắc màu Nam Bộ đặc trưng quê hương của vùng sông nước Bến Tre.
Đó là màu xanh dịu mát trên những dãy cù lao, của đám rừng dừa nước thẳng tắp, của những ngọn cau ngọn vườn cao vút, của những bụi chuối ven bờ, của những hàng mận ven dòng kinh soi bóng nước, lủng lẳng trên cao là những chùm mận chín. Đó cũng là màu xanh của con đường tỉnh lộ 57 nối liền Mỏ Cày với phà Đình Khao xuôi về Vĩnh Long. Đây là con đường màu xanh cho tôi nhiều xúc cảm nhất khi có cơ hôi ngang dọc đồng bằng trong nhiều năm qua, vì màu xanh của con đường chính là màu của lao động, và là màu của sự đoàn viên khi xuân về Tết đến. Đó là hình ảnh của những nàng bướm có đôi cánh màu đen tuyền lượn lờ trong không trung tang tình đón gió, của những chú chim non vô tư nhảy nhót trên cành từng hồi ẩn hiện, của những anh chuồn chuồn có đôi cánh mỏng tăng đang bay cao báo hiệu những ngày nắng ráo sắp về.
Đó là âm thanh của tiếng vó ngựa xen lẫn tiếng leng keng của anh bán cà rem vang suốt đường làng quê Thới Sơn rợp mát bóng dừa, của tiếng xuồng máy đuôi tôm đưa khách vào tận nhà vườn, của những bài ca vọng cổ bên dòng kinh Tân Thạch như đêm nào ngồi nghe em gái hát dưới trăng. Là một bữa cơm trưa dân dã có món cá tai tượng chiên xù tại nhà anh Năm Thành dưới tàn sa pô chê mát rượi. Là gương mặt của Diễm với má lún đồng tiền và đôi mắt tròn xoe, luôn ân cần và chu đáo, giống như cách mà những người phụ nữ Bến Tre bao đời qua đã và đang biết cách vun vén cho cuộc đời mình. Và trong tận cùng của miền ký ức thanh âm, đó là sự rộn rã của những tiếng nói cười của các em nhỏ lúc tan trường, những chủ nhân tương lai được nuôi dưỡng bằng vị ngọt ngào của xứ dừa Đồng Khởi năm nào.
Mai tôi về thăm lại Bến Tre…