Trang chủ » TẢN MẠN VỀ EVEREST

TẢN MẠN VỀ EVEREST

Đánh giá post

Nếu Lâm Tỳ Ni là điểm đến không thể thiếu dành cho Phật tử khắp nơi trên thế giới trong hành trình Ấn Độ – Nepal, thì sân bay Kathmandu tại Nepal luôn nhộn nhịp với những âm thanh rộn ràng, những bước chân dồn dập, cùng những kiện hành lý nặng trĩu của những tay leo núi từ bốn bể năm châu hội tụ về, nhất là đầu tháng 4 khi mùa cho những trải nghiệm hoạt động ngoài trời đang đến. Trong đó, khu phố Thamel tại Kathmandu luôn là nơi hội ngộ những anh tài, “những gã điên rồ nhất thế giới” đang sẵn sàng cho những cột mốc chinh phục sắp diễn ra tại quốc gia đặc biệt này, hàng năm.

Nếu bạn thích trekking, thích thử sức đôi chân của mình, bạn có thể liên hệ với bất kỳ công ty chuyên về trekking tại Kathmandu và Pokhara. Tùy theo điều kiện sức khoẻ, thời gian, họ sẽ lên một cung đường và những dịch vụ kèm theo dành riêng cho bạn, và dĩ nhiên giá cả cũng khác nhau. Nhưng có một điểm chung là, hành trình của bạn thường bắt đầu từ Kathmandu và kết thúc tại Pokhara. Nếu bạn thích ngắm núi mà ngại việc trekking thì điều đó cũng chẳng hề hấn gì. Các công ty du lịch du lịch sẽ sẵn sàng phục vụ nhu cầu của bạn, miễn là bạn có tiền trong túi. Đó là có thể là những chuyến bay qua núi, được tổ chức hàng ngày, cũng ở hai điểm đến du lịch chủ lực này tại Nepal.

Nói về những chuyến bay qua núi, hiện ở Kathmandu có Mountain Flight, còn ở Pokhara có Ultra Flight. Nếu thời tiết đẹp bạn có thể ngắm dãy Hy Mã Lạp Sơn trong địa phận Nepal, với khoảng 20 ngọn núi cao, bằng loại máy bay nhỏ trong khoảng 45 phút, giá vé dao động từ 120 – 135 Mỹ kim tuỳ hãng. Sau chuyến bay thành công, niềm vui của bạn sẽ được nhân lên rất nhiều, khi trên tay bạn là tấm giấy chứng nhận mang dòng chữ: “Tôi không leo lên Everest, nhưng tôi lại mở lòng ra với núi”. Đúng là đỉnh cao của nghệ thuật quảng cáo, và đó cũng là lý do bạn chẳng ngại thức sớm để bay, và dĩ nhiên thời tiết hôm đó phải hết mình ủng hộ bạn.

Chúng ta đều biết, rặng Hy Mã Lạp Sơn dài khoảng 2.400km, trải dài từ Tây Tạng qua Nepal, qua India qua Pakistan và Bhutan, mà tâm điểm của nó chính là đỉnh Everest hùng vĩ. Nếu Hy Mã Lạp Sơn được mệnh danh là “Vương quốc của băng tuyết” thì Everest được xem như là “Nóc nhà của thế giới” hay là “Cực thứ ba của địa cầu”. Ngọn núi cao 8.848m trong rặng Hy Mã Lạp Sơn này được George Everest (1790-1866), một viên chức người Anh vốn làm việc ở Sở Trắc Địa Ấn Độ chứng minh đây là ngọn núi cao nhất thế giới qua những số liệu đã thu thập được, và tên của ông được đặt cho ngọn núi cao nhất thế giới này cũng là điều chính đáng.
Tuy nhiên, với người Nepal, họ dùng từ Sagarmatha (Mẹ vũ trụ), trong khi người Tây Tạng lại gọi là Chomolungma (Nữ thần Bầu trời) để chỉ Everest, và dĩ nhiên công cuộc chinh phục đỉnh cao luôn là sự thách thức và niềm vinh quang cho mỗi cá nhân, nhất là những người trẻ. Khi người ta trẻ, người ta có sức khoẻ và sự dẻo dai, và chính hai yếu tố này, cùng với lòng can đảm và sự quyết tâm, luôn thôi thúc những người trẻ chinh phục những đỉnh cao của cuộc đời.

Lịch sử chinh phục Everest là lịch sử oai hùng và cũng lắm thắm bi thương. Có người thành công, có kẻ bỏ xác dọc đường. Có người được vinh danh, có kẻ bị quên lãng. Âu cũng là mệnh số. Lịch sử chinh phục Everest có trang đầu tiên khắc tên vàng hai nhân vật, một mang quốc tịch Tân Tây Lan – Edmund Percival Hillary, một sinh ra ở Nepal nhưng sống ở Ấn Độ – Tenzing Norgay. Hai nhà leo núi này vốn thuộc đội hình leo núi của nước Anh, được dẫn dắt bởi đại tá tài ba và cũng là nhà leo núi cừ khôi với tên gọi là John Hunt. Ngày 29 tháng 5 năm 1953 là ngày được cả thế giới nhớ về, khi hai người này đã chinh phục đỉnh cao lịch sử, sau gần 80 ngày đêm cực kỳ gian nan thách thức.

Tiếng vọng đại ngàn từ Everest mang lại, mà sử gia gọi là The First Ascent, Everest 1953, đã đang và sẽ thôi thúc những bước chân, những trái tim với lòng quyết tâm cao hướng về Everest, về Nepal, về Kathmandu. Bảy mươi năm sau kể từ ngày ấy, đã có gần 11.000 lần những dấu chân con người đặt đến cao điểm này. Với thế giới, họ thật sự là những anh hùng.

Với những anh hùng Everest, và những người thích chinh phục núi cao, thành công sẽ không đến được nếu không có sự trợ giúp của những người Sherpa. Sherpa là từ được dùng để chỉ những người bản địa Nepal hoặc Tây Tạng được thuê trong các chuyến đi leo núi, với nhiệm vụ chính là dẫn đường và làm công tác hậu cần. Theo nghĩa đen, Sherpa có nghĩa là “những người đến từ phía đông”. Tuy nhiên, không phải tất cả người Nepal hay Tây Tạng đều là người Sherpa. Chỉ có khoảng 20.000 người Sherpa đang hiện diện ở Nepal. Về nguồn gốc, họ là một nhóm người đã di chuyển đến khu vực Everest từ hơn 500 năm trước và họ luôn tin rằng Everest là ngọn núi linh thiêng với nguồn năng lượng tâm linh bất tận và bất cứ ai đi ngang qua đây đều nên bày tỏ lòng thành kính với núi. Với họ, Everest không chỉ là ngọn núi để chinh phục mà còn để tôn vinh.

Người Sherpa theo đạo Phật, một trong những tôn giáo của Tây Tạng và Nepal. Người Sherpa có nhiều vị thần, nữ thần và ác quỷ, và tin rằng những vị thần này hiện diện trên những ngọn núi cao, trong hang động và trong những khu rừng. Mặc dù những người muốn chinh phục Everest có nhiều đức tin khác nhau, nhưng trước mỗi chuyến đi những nhà leo núi này phải tham gia vào các nghi lễ linh thiêng mà người Sherpa thực hiện, trong đó quan trọng nhất là nghi lễ Puja. Trong nghi lễ Puja này, lá cờ cầu nguyện được treo lên cao, tung bay trước gió, nhằm gửi đi thông điệp hòa bình, hài hòa, từ bi, trí tuệ và thiện chí đến tất cả chúng sinh. Năm sắc của cờ đại diện cho năm yếu tố cơ bản trong vũ trụ, bao gồm màu xanh lam biểu thị cho không gian, màu trắng cho không khí, màu đỏ cho lửa, màu xanh lục cho nước và màu vàng cho đất. Các lá cờ này cũng phải được xâu theo thứ tự đó, từ trái sang phải.

Ẩn mình giữa sự hùng vĩ của dãy Himalaya và sự mênh mông của đồng bằng Ấn Độ, Nepal là vùng đất có phong cảnh tuyệt đẹp, và vô số những con đường mòn đi bộ được xem là tuyệt vời nhất trên quả đất này. Và chính yếu tố địa hình hấp dẫn này góp phần tạo nên danh tiếng cho Nepal là điểm đến dành cho những người thích thiên nhiên, thích vận động thể thao, thích cảm giác mạnh. Khoảng 90 phần trăm du khách đến Nepal nhắm thực hiện các chuyến leo núi, hoặc tham gia các hoạt động thể thao ngoài trời như lướt bè, chèo kayak, đạp xe, nhảy dù, cắm trại… trong những khu rừng quốc gia rộng lớn ở Nepal. Dĩ nhiên là, họ là những người trẻ, những người yêu thể thao, yêu thiên nhiên hoang dã. Nếu bạn muốn tìm sự tiện nghi hay hưởng lạc, chắc chắn là Nepal không phù hợp với nhu cầu của bạn.

Với tôi, tôi thích ngắm núi và đi trên những con đường ngoằn ngoèo bên núi. Đó là lý do tôi chọn Nepal là điểm đến trong kỳ nghỉ hè năm nay. Ngay cả việc chọn lối đi lên Pokhara từ Lâm Tỳ Ni, tôi cũng chọn cung đường đèo mà ít cánh tài xế nào muốn chạy, cơ bản vì cung đường này xa hơn và cũng đèo dốc hơn. Tính tôi thích phiêu lưu khám phá. Nhưng sau khi vượt qua cung đường dài gần 250 cây số này rồi, tôi mới mình lựa chọn đúng đắn. Đây là cung đường mà hàng thế kỷ trước, người Tây Tạng và người Ấn Độ đã sử dụng để giao thương buôn bán và giao lưu văn hoá với thế giới bên ngoài. Đó là cung đường chạy từ Bhairawa đến Pokhara, được rải đá dăm từ những năm 1960, có độ cao tăng dần, với chục con đèo lớn nhỏ, có tên và không tên, chạy dọc theo những vực sâu thăm thẳm, những góc cua rợn người, núi non nghìn trùng trước mặt hai bên. Thỉnh thoảng xe ngang qua một xóm làng nhỏ, cư dân thưa thớt, có phần xác xơ, lòng bỗng chùng lại, suy nghĩ về cuộc đời sao mà khác nhau quá. Cũng có lúc lòng vui lại, khi qua những cung đường thấy hoa lá xôn xao, tiếng chim vui hót, với mấy chú sóc băng ngang, với suối nước róc rách bên đường. Nhưng cái tuyệt vời khi đi trên cung đường đèo núi này là sự gần gũi với thiên nhiên, với những phút giây khi lòng mình lắng lại, có cảm giác là thời gian đang ngừng trôi, cho ta đối diện với chính mình, để tự tìm câu trả lời cho câu hỏi thế gian là gì và cuộc đời mình sẽ đi về đâu.

Đi về đâu trong cuộc đời này thì tôi chưa rõ, nhưng tôi biết chắc là tối nay tôi sẽ nghỉ lại Tansen. Đó là một thị trấn nhỏ nằm cách thủ đô Kathmandu khoảng 125 km về phía tây. Thị trấn Tansen chủ yếu được biết đến với những ngôi nhà truyền thống, những ngôi đền tôn giáo đẹp, cùng cảnh quan tuyệt vời của dãy Hy Mã Lạp Sơn phía xa. Tuy là một thị trấn nhỏ, nhưng phải nói Tansen vô cùng duyên dáng và đáng yêu. Cái duyên dáng và đáng yêu này chắc chắn là được xây dựng từ nền văn hoá của người Newar vốn hiện hữu từ ngàn năm trước.

Với người Newar, họ có ngôn ngữ riêng, thuộc nhóm ngôn ngữ Miến – Tạng. Lịch sử nhân loại chứng minh rằng, ngôn ngữ viết được xem là kỳ tích văn hoá của một cộng đồng, của một dân tộc, và tộc người Newar cũng nằm trong dòng chảy văn hoá – văn minh dưới rặng Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ đó. Với tôn giáo, người Newar vừa theo đạo Hindu vừa theo đạo Phật. Theo điều tra dân số năm 2001 ở Nepal, khoảng 84% người Newar theo đạo Hindu và 15% người Newar theo đạo Phật. Cả hai tôn giáo này hiện được tôn trọng như nhau trong cộng đồng tộc người Newar. Người Newar có lối sống độc đáo, với những nghi lễ và lệ tục phải được tuân theo từ khi con người sinh ra cho đến khi lìa đời, trong đó thực hành tín ngưỡng Bel Bibaha dành cho các cô gái chưa đến tuổi vị thành niên kết hôn với Bel (trái cây), nhằm đảm bảo rằng trong tương lai các cô gái này có khả năng sinh nở, là tín ngưỡng nhận được sự quan tâm của nhiều người.

Với Tansen, với những con đường quanh co dọc núi đồi được lát bằng đá cuội, với những ngôi nhà truyền thống màu hồng nhạt, có khung cửa bằng gỗ chạm khắc công phu, với nghề dệt thổ cẩm gia truyền qua bao thế hệ, tất cả đang làm nên một Tansen quyến rũ ngày hôm nay. Chàng tiếp tân kể tiếp rằng, mùa đông nơi này lạnh lắm vì Tansen nằm trên núi cao, nhưng Tansen rất đẹp và rất nên thơ, khi những làn sương sớm mùa đông phủ đầy thung lũng Madi bên dưới. Sương Madi trắng xoá, chẳng chịu bay đi, cứ dủng dẳng dùng dằng, chẳng biết nơi đâu là mây nơi đâu là sương là núi, làm cho những ai một lần ngang qua đây, khi rời xa chắc sẽ nhớ hoài nhớ mãi. Hỏi nhớ gì, câu trả lời là nhớ mây nhớ núi nhớ sương, nghe cũng đầy thuyết phục.

Ở những vùng núi cao như Tansen chẳng hạn, chúng ta bắt gặp những con người Newari chính hiệu. Trông họ vô cùng hiền lành, chất phát và yêu đời. Trước đây, người Newari chủ yếu làm nông nghiệp do sở hữu nhiều đất canh tác ở xung quanh thung lũng Kathmandu và vùng phụ cận. Cùng với quá trình hiện đại hóa, người Newar bắt đầu mở rộng tầm nhìn và giờ đây họ nắm giữ nhiều thị phần trong lĩnh vực công nghiệp và ngành dịch vụ. Nơi đây, trên những rẻo cao này, người Newari theo Phật giáo sống chan hoà với người theo Hindu giáo, và bày tỏ lòng thương cảm cùng với anh em láng giềng. Chan hoà như những ngón tay trong một bàn tay, như bát nước đầy khi đối nhân xử thế. Khi hoạn nạn thì có nhau, cùng giang tay che chở, cảm thương đồng loại, dù cho anh là người Tây Tạng hay người Bhutan hay là người Mongolian hay là người Ấn Độ. Giống như cách mà Ấn Độ đã cưu mang Đức Dalai Lama khi Ngài rời Lhasa đi lánh nạn, Nepal đã thương cảm với những người láng giềng đến từ Tây Tạng và Butan trong mấy mươi năm qua, dù quốc gia này chẳng lắm của nhiều tiền.

Ở Nepal, mở mắt ra là chúng ta thấy núi. Trong những sáng trong lành hay trong những chiều mưa tạnh, núi in hình của mình xuống mặt nước hồ trong xanh thăm thẳm, hay thản nhiên vươn mình vui đùa cùng những cơn gió nhẹ thơm nồng hương hoa lá cỏ cây. Trong nhiều nền văn hoá, biểu tượng núi tượng trưng cho sự kiên định, trường tồn, bất động và đỉnh cao của núi biểu thị cho trạng thái ý thức tuyệt đối về mặt tinh thần, và văn hoá Nepal cũng không là ngoại lệ.

Với diện tích núi đồi chiếm gần 75 phần trăm diện tích đất đai, trong đó có 8 ngọn núi cao nhất thế giới, quanh năm phủ đầy tuyết trắng, núi là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hoá và tâm linh của người Nepal. Hơn thế nữa, núi biểu thị căn tính dân tộc của người Nepal. Bên núi họ được sinh ra, được nuôi dưỡng. Bên núi, họ được vỗ về sau những tháng ngày rong chơi trong thiên hạ, để rồi bên núi, họ xuôi tay nhắm mắt, rồi đi vào giấc ngủ ngàn thu, mặc cho trời đất kia có nghiêng ngả, chập chờn.

Bài viết liên quan